Thứ Sáu, 18 tháng 8, 2017

HOÀNG GIÁP PHẠM VĂN NGHỊ


Đền thờ Phạm Văn Nghị - Nam Định

                                                                                                                                                                                                        
          Phạm Văn Nghị tự là Nghĩa Trai (1805 - 1880), quê làng Tam Đăng, tổng An Trung, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định (nay thuộc thôn Tam Quang, xã Yên Thắng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).
          Xuất thân trong một gia đình thanh bạch nghèo, trọng chữ nghĩa, cha đỗ nhị trường và làm thày đồ làng, mẹ làm ruộng tần tảo nuôi cả gia đình, Phạm Văn Nghị được đi học từ khi lên 8 tuổi, đỗ Tú tài khoa Ất Dậu (1825), đỗ Cử nhân khoa Đinh Dậu (1837), đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Tuất niên hiệu Minh Mệnh 19 (1838). Sau khi đỗ Hoàng giáp, ông được bổ chức Hàn lâm viện Tu soạn, rồi lần lượt giữ các chức: quyền Tri phủ Lý Nhân, thăng Hàn lâm viện Thị độc sung Sử quán Biên tu, Đốc học Nam Định, Thương biện tỉnh vụ, thăng Hàn lâm Học sĩ, phụ trách Dinh điền sứ. Năm 70 tuổi, ông về nghỉ tại động Liên Hoa (Ninh Bình) cho đến khi mất.       
   

        1- Một sĩ phu nhiệt thành yêu nước

          Năm 1858 quân Pháp nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng mở đầu giai đoạn xâm lược nước ta. Trước sức tấn công uy hiếp của quân Pháp, triều đình Nguyễn ngày càng ngả theo phái chủ hoà, nhượng bộ, tiến tới chịu khuất phục. Trong bối cảnh đó, Phạm Văn Nghị đã đi đầu trong giới sĩ phu Bắc Hà, giương cao ngọn cờ quyết chiến. Trà Sơn kháng sớ  vang lừng muôn thuở của ông đã làm nức lòng mọi người, tăng quyết tâm cho phái chủ chiến. Trong bài sớ bất hủ này, ông đề xuất "phải làm cho trên dưới một lòng, ba quân chung sức", phải "dời căn cứ phòng thủ vào sâu trong nội địa, lấy ngắn đánh dài, đánh đêm, đánh phục kích, dùng vũ khí thô sơ tiếp cận giặc". Đó chính là phương châm chiến tranh du kích, phát huy sức mạnh tổng hợp của quân dân, chọn cách đánh phù hợp trước kẻ địch mạnh để giành thắng lợi. Tiếc rằng triều đình Nguyễn đã không chấp nhận đề nghị của ông.
          Không chỉ bằng lời nói, Phạm Văn Nghị còn thể hiện quyết tâm chủ chiến bằng hành động. Chính ông đã chiêu mộ và chỉ huy đoàn nghĩa dũng, ngày 29 - 2 - 1860 lên đường vào Đà Nẵng để đánh chiếm lại Sơn Trà. Sự kiện này được ghi nhận trong lịch sử Việt Nam như một mốc son tươi thắm, chứng tỏ lòng nhiệt thành yêu nước và quyết tâm chủ chiến của Phạm Văn Nghị.
          Từ năm 1861 Phạm Văn Nghị chuyển sang công việc phòng thủ địa phương. Với chức Hiệp lí quân vụ đồn Bình Hải, rồi Thương biện Hải phòng sứ, ông đã rong ruổi khắp miền duyên hải Nam Định (lúc đó gồm cả Thái Bình), có lần sang cả Hải Dương, Quảng Yên tiễu phỉ do Tạ Văn Phụng -  một tên tay sai của Pháp -  cầm đầu quấy rối hậu phương ta. Ông lại hiến kế tổ chức các đội dân dũng để điều động phòng thủ tỉnh nhà, góp phần giữ yên trị an ở địa phương. Khi đắp đồn Tròn gần cửa Ba Lạt, ông đã lấy 100 mẫu ruộng công chưa sử dụng đến của xã Hà Cát (thuộc huyện Giao Thuỷ) để binh lính cày cấy tự túc lương thực.
          Cuối năm 1873 quân Pháp bất ngờ đánh úp Nam Định. Ngày 10 - 12 - 1873 tàu giặc đến ngã ba Độc Bộ, quan quân chính quy của triều đình hốt hoảng bỏ chạy, chỉ có đội dân binh của Phạm Văn Nghị là kiên cường chống trả, cầm cự được 3 giờ, diệt 3 tên Pháp, bắn cháy tàu chiến giặc. Chính người Pháp cũng phải thừa nhận trong cuốn Cuộc viễn chinh của Pháp ở Bắc Kỳ (Le Haucourt, Pari, 1888) về sự kiện này như sau:
          "Lối vào con ngòi (chỉ sông Đào) dẫn đến sông Hồng có ba khẩu pháo trấn giữ, ngăn chặn tàu Scorpion và đã xảy ra cuộc chiến đấu kéo dài 2 giờ. Hạm đội Pháp cũng thiệt hại tương đối nặng".
          Thành Nam thất thủ, Phạm Văn Nghị đưa quân về xây dựng căn cứ ở vùng núi Yên Hoà (Ý Yên), chỉ trong ba ngày đã có 7.000 người kéo về ứng mộ. Ông tổ chức lực lượng, đập tan cuộc tập kích của Đề đốc Định -  một tên tay sai do Pháp dựng lên - khi chúng phối hợp với quân Pháp đánh căn cứ Yên Hoà. Ông phái quân thủ hạ đi trấn áp bọn phản động, hào mục theo giặc, giữ yên ba huyện Phong Doanh, Ý Yên, Thanh Liêm.
          Tháng 3 năm 1874, theo điều ước Philastre, quân Pháp rút khỏi Bắc Kỳ, Phạm Văn Nghị nhận lệnh đi hiểu dụ, ổn định tình hình trong tỉnh. 
          Trong cuộc kháng chiến bảo vệ Nam Định, Phạm Văn Nghị có vai trò quan trọng. Nếu như lệnh của triều đình cử Phạm Văn Nghị làm quyền Tuần phủ Nam Định không vì giao thông ách tắc mà đến được tay ông, chắc chắn công cuộc phòng thủ tỉnh nhà sẽ thu được nhiều thắng lợi vẻ vang hơn.   

           2 - Một vị quan thanh liêm

          Khi làm quan, Phạm Văn Nghị thường tự nhủ: "Trị dân quý ở chỗ chớ nhiễu dân". Ông cấm các nha lại thuộc quyền hạch sách đòi dân đút lót. Mỗi khi dân đến phủ kiện cáo điều gì, ông đều tự mình xem xét, giải quyết thấu tình đạt lý. Những người thuộc quyền ông phàn nàn rằng: "Cứ thế này thì đại nhân lấy gì chi dùng trong gia đình còn thiếu thốn, mà kẻ nha lại thì uống nước mà làm việc ư?"  Ông chỉ cười và an ủi họ: " Ta lạm giữ chức vụ là cha mẹ dân. Đã là cha mẹ, có khi nào còn tìm cách cướp đoạt gia sản của con!"  Ông thanh liêm như thế nên dân rất quý phục.
          Năm 1840 đê Thanh Liêm trong hạt ông bị vỡ. Vua Thiệu Trị vừa lên ngôi đã thừa nhận: "Nước lụt là thiên tai, sức người không thể lại". Tuy vậy ông vẫn day dứt tự trách mình chưa làm tròn nghĩa vụ chăm lo cho dân. Với nỗi niềm thương dân vô hạn đó, mỗi khi có điều kiện là ông lại tìm cách hết sức giúp dân. Năm 1855 ông đang nghỉ dưỡng bệnh, thấy vùng ven biển Đại An có nhiều bãi sa bồi chưa khai khẩn, ông đã xin tỉnh cho lập trại Sỹ Lâm (sau phát triển thành tổng Sỹ Lâm), tạo cho nhiều gia đình an cư lạc nghiệp. Nhớ công ơn người mở đất, dân làng Sỹ Lâm đến nay vẫn còn thờ ông.
          Trong thời gian giữ chức Hải phòng sứ Nam Định, ông thường qua lại vùng Giao Thuỷ, Xuân Trường, thấy mùa màng thất bát, dân tình đói khổ, ly tán, ông đã vận động những hào phú trong vùng và học trò đóng góp tiền, thóc lập kho nghĩa thương ở từng vùng để cho dân nghèo vay lãi nhẹ vượt qua cơn túng quẫn. Bản thân ông cũng bỏ ra 1000 quan tiền mua ruộng giao cho dân địa phương cày cấy, gọi là nghĩa điền.
          Khi con cả ông là Phạm Đăng Giảng đỗ Phó bảng và được bổ làm Tri huyện Mê Linh (nay là Vĩnh Linh), người trong nhà ngại đó là huyện nghèo và xa quê hương, riêng ông lại lấy làm mừng vì cho rằng dân nghèo quan mới dễ liêm. Ông khuyên răn con ba điều mà cả cuộc đời ông đã thực hiện triệt để, coi như là những điều cốt yếu trong đạo làm quan, mà gốc giữ được là "tâm": Thanh liêm, chăm chỉ, thận trọng.

        3 - Một nhà giáo nổi tiếng

          Bắt đầu dạy học từ năm 16 tuổi khi còn đi học, Phạm Văn Nghị gắn bó với nghề dạy học trong suốt cuộc đời. Khi ông vào kinh thi Hội vẫn có nhiều học trò theo học. Thời gian làm quan ở Quốc sử quán trong kinh thành Huế (1840 - 1846), ông vẫn dành thời gian dạy học. Khi ông cáo bệnh về quê mở trường Tam Đăng, trong 12 năm, từ Thanh Nghệ trở ra, "người bốn phương cắp sách tới học hàng ngàn"(1). Từ năm 1857 đến năm 1862 Phạm Văn Nghị làm Đốc học Nam Định, chuyên trách lo việc học chính trong tỉnh. Ngay cả khi đã ngoài 60 tuổi, lại rất bận với việc võ bị phòng giữ duyên hải, ông vẫn tranh thủ kết hợp mở trường dạy học ở Hoành Nha (nay thuộc xã Giao Tiến, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định). Trường Hoành Nha là một loại trường khá đặc biệt trong lịch sử giáo dục nước ta, vừa dạy văn, vừa luyện võ.
          Là một nhà giáo tâm huyết với nghề, Phạm Văn Nghị chăm lo cải tiến phương pháp giảng dạy. Ông sáng tác những bài thơ giáo dục để học trò dễ thuộc, dễ nhớ. Ông chú trọng việc dạy làm người cho học trò. Tự biết mình không có sở trường làm quan cai trị và cũng không tha thiết với danh vọng, lợi lộc, Phạm Văn Nghị tự nhủ mình: "Báo ơn nước, chỉ còn có việc dạy học, đào tạo nhân tài cho đất nước". Trong số học trò của ông có nhiều người đỗ đạt cao, trở thành những nhân sĩ yêu nước, làm nên sự nghiệp nổi tiếng như: Tam nguyên Trần Bích San, Tam nguyên Nguyễn Khuyến, Hoàng giáp Đỗ Huy Liêu, Phó bảng Đặng Ngọc Cầu, Phó bảng Lã Xuân Oai, Tiến sĩ Tống Duy Tân, Thủ khoa Nguyễn Cao, Đại thần Cơ mật viện Phạm Thận Duật... Nhiều học trò của ông trở thành những lãnh tụ khởi nghĩa chống Pháp mà chí khí và sự nghiệp của họ còn lẫy lừng trong lịch sử như Phạm Nhân Lý, Đinh Công Tráng...
          Thế kỉ 19 nước ta có ba người đạt danh hiệu Tam nguyên thì trường Tam Đăng của Phạm Văn Nghị đã chiếm hai người. Có thể coi trường Tam Đăng là một trung tâm giáo dục tốt nhất Bắc Kỳ thời đó.
          Phạm Văn Nghị đã dồn hết tâm trí và tài năng vào việc dạy học. Không được thày Phạm Văn Nghị nuôi dạy trong nhà như con đẻ thì chưa chắc đã có ông Cử nhân Phạm Thật Duật, một danh nhân nổi tiếng từng cáng đáng hầu hết các công việc mũi nhọn của đất nước thời Tự Đức, một trong những người khởi động phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỉ 19. Không có thày Phạm Văn Nghị có lẽ cũng không thể có Tiến sĩ Tống Duy Tân, một thủ lĩnh phong trào Cần Vương chống Pháp ở Thanh Hoá.
          Câu đối của trò Tống Duy Tân viếng thày phần nào đã thể hiện được cái chí nguyện của Phạm Văn Nghị và tình nghĩa của trò đối với ông:

          Tiên sinh lo việc trước người đời, thân thế nổi chìm ôi mấy độ;

          Đệ tử coi thày như thân phụ, mất còn chung thuỷ mãi trăm năm. 

       4 - Một tác giả yêu nước tiêu biểu cuối thế kỉ 19

          Khối lượng tác phẩm của Phạm Văn Nghị hiện còn đến nay khá nhiều: gần 600 bài gồm nhiều thể loại, riêng thơ khoảng 250 bài, được tập hợp trong Tùng Viên văn tập(2). Thơ văn yêu nước của ông chỉ chiếm một phần nhỏ trong số này, nhưng đã thể hiện rõ chí khí quyết không dung tha lũ giặc ngoại xâm và bọn tay sai bán nước. Trà Sơn kháng sớ của ông được coi như là một lá phiếu biểu quyết cho quan điểm chủ chiến. Còn câu thơ hào hùng sau đây chính là tuyên ngôn quyết chiến của ông:
 Giặc Tây sao giám phạm bờ cõi,
Chẳng mấy gươm trời quét sạch bay.
           (Bài Ngẫu tác khi đi thuyền qua Hưng Yên, thấy ruộng đồng rộng rãi, làng mạc liên tiếp, đêm xuân yên ổn, dân chúng yên vui làm ăn / Nguyễn Văn Huyền dịch).
          Trước cảnh quê hương bị quân thù dày xéo, ông uất ức:
          Mắt căm quân giặc phạm Trà Sơn
             (Bài Phụng chỉ cho về giữ chức cũ, thuật hoài /  Nguyễn Văn Huyền dịch).
          Lòng căm thù giặc ở ông đến mức "Giận sôi, tóc dựng mũ" và nhà thơ đã tự nhận lấy trách nhiệm "Bút gác, há thua ai"(3) như nhiều trí thức có lương tri thuở ấy. Ông đi vào cuộc chiến chống ngoại xâm với niềm lạc quan tin tưởng vào thắng lợi của chính nghĩa, của dân mình, nước mình:
                   Sĩ dân đó, núi sông đây
          Muôn năm bền vững nước non này.
        (Bài Ngẫu tác khi đi thuyền qua Hưng Yên, thấy ruộng đồng rộng rãi, làng mạc liên tiếp, đêm xuân yên ổn, dân chúng yên vui làm ăn / Nguyễn Văn Huyền dịch).
          Ông tin vào sức mạnh tinh thần của mình, tin vào đạo lí mà ông suốt đời thờ phụng sẽ được đáp ứng:
Suốt đời trung hiếu một lòng
Tự nhiên sẽ được non sông phù trì.
                    (Bài Trên đường hành quân tự thuật / Đỗ Văn Toại dịch).
          Niềm tin ấy đã tiếp cho ông sức mạnh vượt qua bao thử thách gian lao, kiên trì sự nghiệp chống giặc cứu nước.
          Bên cạnh những bài thơ đầy chí khí căm thù giặc, quyết không dung tha lũ xâm lược thì ông lại có những bài thơ thắm đượm tình cảm nồng hậu đối với gia đình, người thân, học trò, bạn hữu, nhân dân. Tình yêu nước ở ông là yêu mảnh đất quê hương, yêu những người thân của mình. Mấy năm làm quan ở trong kinh, ông có tới ba bài thơ tưởng nhớ vợ, tha thiết ước mong những giây phút hạnh phúc hiếm hoi:
                   Ước gì họp mặt đêm nay
Thoả lòng ao ước một ngày ba thu.
    (Bài Mùa xuân trạnh nhớ ai /Đỗ Ngọc Toại dịch).
          Lòng nhớ thương người em đã mất của ông thật cảm động:
Từ khi khuất nẻo chim hồng
 Khăn đầm lệ thấm, cõi lòng nát tan.
                   (Bài Nhân ngày giỗ nhớ đến người em đã mất / Nguyễn Văn Huyền dịch).
          Ông hết lời ca ngợi, biểu dương và thương tiếc những con người nghĩa khí. Nhân ngày giỗ Đặng Ngọc Cầu, ông thương tiếc người học trò yêu quí của mình:
 Ví còn anh ở dương gian
         Thanh gươm yên ngựa dọc ngang chiến trường.
                    (Bài Cảm tác nhân ngày giỗ đoạn tang Phó bảng Đặng Xá họ Đặng /  Vũ Minh Am dịch).
          Khi người học trò của ông là Tam nguyên Trần Bích San mất, ông khóc thổn thức:
          "Cha con một nhà : Thanh tiết lừng vang, tài chính trị trác việt. Đất nước được mấy người làm quan như thế thì còn lo gì, sợ gì nữa. Sao trời nỡ cướp đi vội bấy?  Thế là xong! Thế là xong!"
          (Bài Viếng Trần Bích San / Nguyễn Văn Huyền dịch).
          Trước cảnh quê hương gặp thiên tai, mất mùa đói kém, dân tình khổ sở, ông xót xa:
Chiêm thất bát rồi, chua xót dạ
Mùa tiêu khô nữa, đớn đau lòng.
                (Bài Gặp hạn cầu mưa, cảm tác / Nguyến Văn Huyền dịch).
          Nói chung thơ văn yêu nước của ông thể hiện sâu sắc tấm lòng trung hiếu sắt son và tình yêu thiết tha với nước, với dân, lòng căm thù giặc, quyết không dung tha quân xâm lược. Ông được coi là một nhà thơ yêu nước tiêu biểu cuối thế kỉ 19 và là một tác gia có vị trí xứng đáng trong nền văn học Việt Nam.
* 

          Phạm Văn Nghị là một trí thức Việt Nam đã sống và chiến đấu hết mình cho dân tộc. Từ một vị đại khoa, một quan văn, ông tự nguyện trở thành một lão tướng, mộ quân ứng nghĩa, xông pha trận mạc, đem hết tài năng và sức lực phục vụ sự nghiệp chống giặc ngoại xâm. Danh vọng, uy tín, những hành động thiết thực của ông đã có ảnh hưởng sâu sắc không chỉ ở Bắc Hà, mà còn có tác dụng khích lệ động viên quân dân cả nước tích cực kháng chiến chống thực dân Pháp.
          Phạm Văn Nghị là một vị quan hết lòng thương yêu và chăm lo cho dân, được dân yêu mến và kính phục. Là một nhà giáo, ông đã suốt đời tâm huyết với nghề, đào tạo được nhiều người tài đức cho đất nước.
          Là một tác gia văn học, một nhà thơ yêu nước tiêu biểu cuối thế kỉ 19, ông để lại một di sản văn học có giá trị (Tùng Viên thi tập, Nghĩa Trai trường văn sách, Bài phú Nôm Pháp đánh Bắc Kỳ...). Thơ văn của ông với cuộc đời ông là một, ở ông lời nói và hành động luôn luôn nhất quán. Sự nghiệp vì dân vì nước và thơ văn của ông đều vẻ vang hiển hách.     
          Ngày 12 - 12 năm 1880 ông qua đời, để lại niềm thương tiếc vô hạn cho học trò, sĩ phu, bà con làng xóm và nhân dân trong nước. Phạm Thận Duật, một học trò của ông đã viết về ông:
          "Tiên sinh mất rồi, song cái điều không bao giờ mất là cái chính khí "hạo nhiên" vẫn cùng với non Côi, bể Nhạ, động Liên Hoa mãi mãi bất hủ. Người đời nay, người mai sau, nghe thấy phong độ của tiên sinh ai mà chẳng kính mộ, ai mà chẳng noi theo, như thế thì tiên sinh chưa phải là mất".  

TMG
                                                                                         
.........................................

Chú thích : 
 (1) Văn viếng Phạm Văn Nghị của Phạm Thận Duật.
(2) Sách lưu tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A1337, dày 672 trang.
(3) Dâng sớ xin đi quân thứ Quảng Nam, được chỉ, cùng các quan tỉnh dự tiệc tiễn / Nguyễn Văn Huyền dịch.
         
Nguồn: Các nhà khoa bảng Nam Định thời phong kiến / Trần Mỹ Giống. – H.: Quân đội nhân dân, 2017





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét