Thứ Bảy, 12 tháng 8, 2017

ĐƯỜNG THI – CHỦ ĐỀ BIÊN TÁI (Kì 15) / Nguyễn Ngọc Kiên chọn dịch và giới thiệu thơ


 
TS Nguyễn Ngọc Kiên


          NHÀ THƠ ĐỖ MỤC
          Đỗ Mục 杜牧 (803-853) tự Mục Chi 牧之, hiệu Phàn Xuyên 樊川, người Vạn Niên, quận Kinh Triệu (nay là Trường An, tỉnh Thiểm Tây). Ông nội Đỗ Hựu vừa là một tể tướng giỏi về lý tài, vừa là một sử gia biên soạn sách Thông điển. Anh là Đỗ Sùng, phò mã, làm đến tiết độ sứ, rồi tể tướng. Đỗ Mục có dáng dấp thanh tú, tính thích ca nhạc, ưa phóng tong, còn nhỏ đã nổi tiếng văn tài. Khi mới lên kinh sư, được Thái học bác sĩ Ngô Vũ Lăng đưa thư văn đến cho quan chủ khảo là thị lang Thôi Uyển xem. Thôi rất kinh ngạc về bài A Phòng cung phú. Năm 828, hai mươi sáu tuổi, ông đỗ tiến sĩ, lại đỗ luôn khoa chế sách Hiền lương phương chính, được bổ chức hiệu thư lang ở Sùng văn quán, rồi ra làm đoàn luyện tuần phủ tại Giang Tây, sau đó đến Hoài Nam làm thơ ký cho tiết độ sứ Ngưu Tăng Nhụ, lại đổi về làm giám sát ngự sử tại Lạc Dương. Năm 835, ông đi chơi Hồ Châu, rồi cứ bị đổi làm thứ sử hết nơi này đến nơi khác (Hoàng Châu, Từ Châu, Mục Châu). Năm 849, ông nhờ một người bạn làm tướng quốc xin cho về thái thú Hồ Châu, sau đổi khảo công lang trung tri chế cáo, và cuối cùng làm Trung thư xá nhân. Tác phẩm có Phàn Xuyên thi tập (20 quyển), chú giải Tôn Vũ binh pháp (13 thiên, do Tào Tháo soạn).
                                                       (Theo thivien.net)



ĐẠI NHÂN KÍ VIỄN KÌ 1 – ĐỖ MỤC
Hà kiều tửu bái phong nhuyễn,
Hầu quán mai hoa tuyết kiều.
Uyển Lăng lâu thượng trừng mục,
Ngã lang hà xứ tình nhiêu?

Dịch nghĩa
THAY LỜI NGƯỜI GỬI ĐI XA KÌ 1 – ĐỖ MỤC
Bên cầu sông, lá cờ quán rượu bay mềm mại trong gió,
Trong dinh quan quyển hoa tuyết mai nở đẹp.
Từ lầu cao ở Tuyên Thành mắt nhìn xa xăm,
Người chồng đa tình của thiếp đang ở nơi nào?

Dịch thơ:
THAY LỜI NGƯỜI GỬI ĐI XA KÌ 1 – ĐỖ MỤC
Bên cầu sông lá cờ bay trong gió
Dinh quan tuyết mai nở thắm tươi
Tuyên Thành mắt ngắm xa vời
 Chồng đa tình đang ở nơi xứ nào?


ĐẠI NHÂN KÍ VIỄN KÌ 2 – ĐỖ MỤC
Tú linh nhậm thuỳ bồng kết,
Đinh hương nhàn kết xuân tiêu.
Thặng khẳng tân niên quy phủ?
Giang nam lục thảo điều điều.

Dịch nghĩa
THAY LỜI NGƯỜI GỬI ĐI XA KÌ 2 – ĐỖ MỤC
Chuông thêu rủ hững hờ trên búi tóc rối,
Mặc cây đinh hương mùa xuân đã kết trái trên ngọn.
Xin chàng hãy khẳng định năm mới có về nhà hay không?
Cỏ ở Giang Nam xanh tươi và trải dài xa xăm.

 Dịch thơ:
THAY LỜI NGƯỜI GỬI ĐI XA KÌ 2 – ĐỖ MỤC
Chuông thêu rủ hững hờ tóc rối,
Mặc đinh hương kết trái mùa xuân
Chàng ơi chàng có về chăng?
Giang Nam cỏ mướt giăng giăng trải dài.

          NHÀ THƠ NHUNG DỤC
          Nhung Dục 戎昱 người Kinh Nam (nay thuộc Giang Lăng, Hồ Bắc, Trung Quốc), đỗ tiến sĩ. Khi Vệ Bá Ngọc giữ Kinh Nam, ông làm tòng sự. Năm Kiến Trung, ông làm thứ sử Thần, Kiền Châu. Thơ có 5 quyển, biên thành 1 quyển trong "Toàn Đường thi".

-戎昱

Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC – NHUNG DỤC – TRUNG ĐƯỜNG
Hán tướng quy lai lỗ tái không,
Tinh kỳ sơ há Ngọc Quan đông.
Cao đề chiến mã tam thiên thất,
Lạc nhật bình nguyên thu thảo trung.

Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT DƯỚI ẢI – NHUNG DỤC
Khi tướng nhà Hán trở lại thì biên giới đã vô sự,
Cờ quạt kéo tới phía đông ải Ngọc Môn.
Ba ngàn ngựa chiến hí vang,
Nắng chiều về trên đồng cỏ mùa thu.

Dịch thơ:
KHÚC HÁT DƯỚI ẢI – NHUNG DỤC
Tướng đến biên thùy vạn sự thông
Tinh kì rợp đất Ngọc Môn đông
Ba ngàn ngựa hí vang trời đất
Nắng chiếu cỏ thu khắp cánh đồng.

          NHÀ THƠ SẦM THAM
          Sầm Tham 岑參 (715-770) tổ tiên ở Nam Dương sau di cư tới Giang Lăng, dòng dõi của tể tướng Sầm Văn Bản 岑文本 (595-645), thi nhân đời Đường đại biểu cho thơ biên tái cùng với Cao Thích 高適. Tác phẩm có "Sầm Gia Châu thi tập" 岑嘉州詩集.


LƯƠNG CHÂU QUÁN TRUNG DỮ CHƯ PHÁN QUAN DẠ TẬP SẦM THAM
Loan loan nguyệt xuất quải thành đầu,
Thành đầu nguyệt xuất chiếu Lương Châu.
Lương Châu thất lý thập vạn gia,
Hồ nhân bán giải đàn tỳ bà.
Tỳ bà nhất khúc trường kham đoạn,
Phong tiêu tiêu hề dạ man man,
Hà Tây mạc trung đa cố nhân.
Cố nhân biệt lai tam ngũ xuân.
Hoa môn lâu tiền kiến thu thảo,
Khởi năng bần tiện tương khan lão.
Nhất sinh đại tiếu năng kỷ hồi,
Đẩu tửu tương phùng tu tuý đảo.

Dịch nghĩa:
TẠI SẢNH ĐƯỜNG LƯƠNG CHÂU CÙNG CÁC PHÁN QUAN TỤ HỌP ĐÊMSẦM THAM
Trăng cong cong ló ra treo ở đầu thành,
Trăng ra khỏi đầu thành chiếu khắp Lương Châu.
Lương Châu có bảy xã gồm mười vạn nóc nhà,
Người Hồ một nửa biết chơi đàn tỳ bà.
Tỳ bà mà tấu lên một khúc khó mà không đau lòng,
Gió thổi vù vù chừ đêm dài dằng dặc.
Trong trướng phủ ở Hà Tây này đa phần là bạn cũ,
Bạn cũ vì đã xa nhau ba năm xuân.
Thấy cỏ thu đang vàng úa trong cổng hoa trước lầu,
Há chẳng thấy gặp nhau ai nấy đều đã già nua.
Trong cuộc đời phỏng được bao lần vui cười lớn,
Gặp nhau đây hãy nâng chén rượu uống cho say gục mới thôi nha.

          Sầm Tham làm bài này khoảng năm 754 khi làm phán quan cho tiết độ sứ Phong Thường Thanh và rất được họ Phong quý mến.

Dịch thơ:
TẠI SẢNH ĐƯỜNG LƯƠNG CHÂU CÙNG CÁC PHÁN QUAN TỤ HỌP ĐÊM – SẦM THAM
Trăng cong ló ở thành đầu
Trăng lên chiếu khắp Lương Châu đó mà!
Lương Châu bảy xã vạn nhà
Người Hồ một nửa tì bà tinh thông
Tì bà tấu khúc đau lòng
Gió vù vù thổi đêm không hết sầu
Hà Tây bạn cũ nay đâu,
Bạn cũ xa cách nỗi sầu  ba lăm.
Cỏ thu vàng úa trên giàn
Gặp  nhau ai nấy đã tàn cả thôi.
Đời này bao trận vui cười
Gặp nhau nâng chén rượu mời cho say.


Phiên âm:
TÒNG QUÂN HÀNH KÌ 2 – VƯƠNG XƯƠNG LINH
Tỳ bà khởi vũ hoán tân thanh,
Tổng thị quan san cựu biệt tình.
Liêu loạn biên sầu thính bất tận,
Cao cao thu nguyệt chiếu Trường Thành.

Dịch thơ:
BÀI CA TÒNG QUÂN KÌ 2 – VƯƠNG XƯƠNG LINH
Tì bà điệu mới đổi âm thanh
Vạn dặm quan san cách biệt  tình
Biên ải nỗi sầu nghe chẳng dứt
Trăng thu vời vợi chiếu Trường Thành.

          NHÀ THƠ LƯU TRƯỜNG KHANH
          Lưu Trường Khanh 劉長卿 (709-780), tự Văn Phòng 文房, người Hà Gian (nay là huyện Hà Gian, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc) đỗ tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 21, làm quan đến thứ sử Tuỳ Châu. Tác phẩm có Lưu Tuỳ châu tập.

-劉長卿

Phiên âm:
BÌNH PHIÊN KHÚC KÌ 2 – LƯU TRƯỜNG KHANH
Diểu diểu thú yên cô,
Mang mang tái thảo khô.
Lũng đầu na dụng bế,
Vạn lý bất phòng Hồ.

Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT BÌNH PHIÊN KÌ 2  – LƯU TRƯỜNG KHANH
Hoang hoải khói biên trơ
Mênh mang cỏ ải khô
Đầu non nào cần khép
Muôn dặm không ngừa Hồ

Dịch thơ:
KHÚC HÁT BÌNH PHIÊN KHÚC (KÌ 2)  – LƯU TRƯỜNG KHANH
Khói biên hoang hoải trơ
Mênh mang cỏ ải khô
Đầu non nào cần đóng
Vạn dặm không phòng Hồ.

- 劉長卿

BÌNH PHIÊN KHÚC KÌ 3 – LƯU TRƯỜNG KHANH
Tuyệt mạc đại quân hoàn,
Bình sa độc thú nhàn.
Không lưu nhất phiến thạch,
Vạn cổ tại Yên san.

Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT BÌNH PHIÊN (KÌ 3) – LƯU TRƯỜNG KHANH
Từ hoang mạc xa xôi, đại quân trở về,
Miền sa mạc nay bình an, chỉ cần một người lính an nhàn.
Để lại một bia đá chơ vơ,
Trên núi Yên ghi chiến tích cho muôn đời sau.

Dịch thơ:
KHÚC HÁT BÌNH PHIÊN (KÌ 3) – LƯU TRƯỜNG KHANH
Hoang mạc xa đại quân trở lại
Sa mạc yên lính phải  an nhàn
Để lại một phiến thạch bàn,
Núi Yên chiến tích cho ngàn đời sau.

          Tác giả dẫn tích Đậu Hiến đời Đông Hán năm 89 lãnh binh đánh bại quân bắc Hung Nô, đuổi tới núi Yên Nhiên, khắc bia ghi chiến thắng rồi trở về, và ưu tư cho thời cuộc nhà Đường, thường bị giặc phiên xâm phạm bờ cõi mà dẹp không yên.

          NHÀ THƠ LÍ ÍCH – 李益
          Lý Ích 李益 (748-829) tự Quân Ngu 君虞, người Cổ Tang, Lũng Tây (nay thuộc huyện Vũ Uy, tỉnh Cam Túc), thi nhân đời Trung Đường.

李益

KHÚC HÁT BINH SĨ – LÍ ÍCH
Hồ phong đống hợp Tịch Đề tuyền,
Mục mã thiên quần trục Ái xuyên.
Tái ngoại chinh nhân vô tận nhật,
Niên niên di trướng tuyết trung thiên.

Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT BINH SĨ – LÍ ÍCH
Gió xứ Hồ làm suối Tịch Đề đóng băng,
Ngàn kỵ binh dân du mục đóng dọc theo sông Ái.
Nơi biên ải chiến sĩ trấn đóng không có ngày về,
Mỗi năm mùa đông tuyết đổ phải di chuyển lều trại.

Dịch thơ:
KHÚC HÁT BINH SĨ – LÍ ÍCH
Gió Hồ đóng băng suối Tịch Đề
Ngàn kị dân du sông Ái kia
Biên ải chinh nhân không trở lại
Mỗi năm tuyết đổ  phải chuyển di. 

          Tựa đề có bản chép là "Noãn xuyên"
暖川. Suối Tịch Đề và sông Ái đều ở biên thuỳ phía bắc.

Nguyễn Ngọc Kiên

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét