Thứ Sáu, 6 tháng 10, 2017

LÒNG YÊU NƯỚC ĐƯỢC ẨN CHỨA TRONG CÁC ÁNG THƠ ĐƯỜNG LUẬT CUỐI THẾ KỶ 19 ĐẦU THẾ KỶ 20




           Lê Văn Hy

Thơ Đường luật Việt Nam trong giai đoạn cuối thế kỷ 19, đầu thể kỷ 20 (Có thể tính từ 1858 đến 1930, từ sau khi quân Pháp nã đại bác vào thành Đà Nẵng đến trước ngày thành lập Đảng).

Đây là giai đoạn có sự khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt nam (các cuộc khởi nghĩa của nông dân, của các sĩ phu yêu nước đều lần lượt bị triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp đàn áp. Phong trào Đông Du của Phan Bội Châu cũng không mang đến một kết quả thiết thực).
- Đây cũng là giai đoạn cuối cùng của Văn học thành văn nói chung và thơ ca nói riêng được sáng tác dưới sự chi phối của ý thức hệ phong kiến.
Đây cũng là giai đoạn thơ Đường luật còn chưa bị "lép vế", khoa thi cuối cùng ở Huế mới qua không lâu (1917). Mà trước đây học trò chữ nho đều phải học thơ Đường, các kỳ thi Hương, thi Hội (lấy từ tú tài, cử nhân đến tiến sỹ) đều phải thi thơ Đường luật.
Vì vậy, các sĩ phu yêu nước, các nhà nho (hữu danh và khuyến danh) đương thời đều sử dụng thơ Đường luật như là một thứ vũ khí sắc bén thể hiện lòng yêu nước thương dân, chống vua quan bán nước và thực dân Pháp xâm lược. Đáp trả tiếng đại bác của thực dân Pháp bắn vào thành Đà Nẵng là những bài thơ Đường luật của các sĩ phu yêu nước... đã lên tiếng lên án thực dân Pháp xâm lược, phê phán triều đình nhà Nguyễn nhu nhược.
Bài "Mãi y chỉ" (Mua áo giấy), tác giả khuyết danh
                   Thử tuế Tây Di phạm Quảng Nam
                   Quan quân chiến bại huyết thành đàm
Tạm dịch:
                   Ngày năm ấy quân Pháp xâm lược đất Quảng Nam.
                    Quan quân thua trận máu chảy thành đầm
Hoàng giáp Phạm Văn Nghị trong bài thơ "Chu quá Hưng Yên ngẫu tác". (Ngẫu hứng khi đi thuyền qua đất Hưng Yên)
                   Như thử giang sơn, thử sĩ dân
                   Thái bàn quốc thế vạn niên xuân
                   Tây Nhung hà sự xâm chu cảnh
                   Chỉ độ thiên qua tảo tích trần.
Tạm dịch:
                   Như ấy giang sơn, ấy sĩ dân
                   Ban trời thế nước vạn niên xuân
                   Cớ chi giặc dám sang xâm phạm
                   Sẽ sớm ngày rước họa vào thân./.
Nghe phảng phất như thơ tuyên ngôn của Lý Thường Kiệt, cũng ca ngợi non sông gấm vóc, nhân tài đất Việt, cũng cảnh cáo bọn xâm lược sẽ nhanh chóng bại vong.
Từ sau khi thực dân Pháp đàn áp cuộc nổi dậy của Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết, triều đình Nguyễn đình chỉ phong trào văn thân, các sĩ phu yêu nước, các nhà nho thời bấy giờ như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích... đều có thơ Đường chống thực dân Pháp xâm lược, ca ngợi tướng quân Trương Công Định "Bởi lòng chúng chẳng nghe Thiên tử chiếu" ca ngợi tổng đốc Nguyễn Tri Phương tuẫn tiết trong thành Hà Nội "Ninh tử bất ninh nhục"
                   Ninh cam tử táng đài long uẩn
                   Khẳng nhẫn sinh phùng bách quỷ ưu
                                                Nguyễn Cao Điều, Nguyễn Tri Phương
Tạm dịch nghĩa:
                   Thà chết vinh còn hơn sống nhục
Cùng với ca ngợi người trung quân ái quốc, thơ Đường đương thời của các sĩ phu, các nhà nho như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích và sau này là Nguyễn Khuyến, Tú Xương và nhiều nhà thơ Đường luật khuyết danh khác đều xoáy vào chủ đề chống thực dân Pháp xâm lược, lên án bọn vua quan bán nước làm tay sai cho giặc.
Nguyễn Hữu Huân có bài "Xem ảnh Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp"
                   Quan Hán vì sao lại đến Hồ
                   Phan Lâm hai vị bậc quan to
                   Thoảng qua tưởng gặp ông khâm mạng
                   Nhìn kỹ thì ra bức họa đồ.
Lê Quang Chiểu có bài "Mắng Tôn Thọ Tường"
                   Khoe danh chừng ấy cũng nên hoang
                   Có thuở như cua phải rụng càng
                   Đứa ngu mới ở lòng đen bạc
                   Người trí chi say dạ đá vàng
Và những bài thơ đã quen thuộc như "Tiến sĩ giấy". "Hội Tây", "Tự trào" của Nguyễn Khuyến và "Năm mới chúc nhau", "Khoa thi năm Đinh Dậu" của Tú Xương.
Vẫn bằng chủ đề yêu nước thương dân, căm thù giặc và bọn tay sai bán nước nhiều nhà thơ Đường luật khuyết danh khác đã bằng thủ pháp liên tưởng, nhân cách hóa đã chửi thẳng từ vua đến quan. Thơ của các ông tuy không được công khai lúc đương thời nhưng lại được truyền miệng rộng khắp trong nhân dân mà đến nay còn nhớ lại và ghi chép lại được. Đó là các bài "Vua bạo ngược":
          Vua ác nên nghe bọn nịnh thần
          Vương hầu sao cũng kiếp tro than

- "Mẫu hậu chửa hoang"
          Cục đất xuân kinh phát phúc rồi
          Khen cho mẫu hậu "mắn" thì thôi
          Hai bên long hổ rừng xanh ngắt
          Một giấc hùng bi giống trắng lai

- "Dương lâm xây sinh từ"
          Tượng đồng chẳng sợ hoen son phấn
          Lăng miếu làm chi tốn gạch vôi
          Chín suối gặp người trung liệt cũ
          Có hay chẳng thẹn nước non trời.
Có khi nhân cách hóa lấy loài dê để chỉ bọn Tây dương (giặc pháp) như bài ca dê trắng có câu "Quân ta trừ diệt giống hôi tanh", bài Đàn dê nằm trong miếu có đoạn:
          Miếu đường lếu láo nằm dong cẳng
          Rừng núi vênh vang đứng phỏng đầu
          Muôn lộc của trời ăn rứa mãi
          Tam sinh có lúc tế cùng trâu
Trong thơ Đường luật yêu nước cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đều đem tâm sự, lòng yêu nước gắn liền với những biến cố lớn lao của đất nước. Ngoài thơ tự sự, thơ trào phúng còn có thơ trữ tình đã ẩn chứa lòng yêu nước sâu thẳm như bài: "Ngày xuân dặn các con" của Nguyễn Khuyến; "Nhớ bạn phương xa" của Tú Xương với những câu thơ da diết lòng người.
          Xuân về đời loạn còn lơ láo
          Sao con đàn hát vẫn say sưa
                                                (NK)
          Tương tư lọ phải là trai gái
          Một ngọn đèn khuya trống điểm thùng./.
                                                  (T.X)
                                                                  
    Lê Văn Hy      
 Lê Xá thị trấn Mỹ Lộc - Huyện Mỹ Lộc - Tỉnh Nam Định                                  
 ĐT: 01244.410.749


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét